Theo đó, Hiến pháp 2013 gồm có 11 Chương và 120 Điều.
Theo đó, Hiến pháp 2013 gồm có 11 Chương và 120 Điều.
Theo Điều 70 Hiến pháp 2013 thì Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
- Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
- Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
Chương I: Những khái niệm cơ bản của luật hiến pháp
Chương II: Những vấn đề cơ bản về hiến pháp
Chương III: Sự ra đời và phát triển của nền lập hiến Việt Nam
Chương VI: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Chương VII: Chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Chương VIII: Chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia
Chương X: Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chương XV: Viện kiểm sát nhân dân
Chương XVI: Chính quyền địa phương
Chương XVII: Các cơ quan hiến định độc lập ở Việt Nam- Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước
Ngày 14-2-2013, Tổng thống Nga Vladimir Putin ký sắc lệnh “Về tổ chức kỷ niệm 20 năm Ngày Hiến pháp Liên bang Nga”. Theo sắc lệnh này, ban tổ chức, phụ trách việc chuẩn bị và tổ chức kỷ niệm Ngày Hiến pháp được thành lập cùng với danh sách các thành viên.
Trong một loạt các hoạt động nhân kỷ niệm ngày trọng đại này, sẽ có tổ chức cuộc họp trọng thể tại điện Kremlin ngày 12-12, diễn thuyết, hội thảo, các cuộc họp bàn tròn, chiêu đãi và nhiều chương trình khác tại Nga cũng như ở nước ngoài.
Lịch sử hình thành chủ nghĩa lập hiến tại Nga có cội nguồn từ nửa đầu thế kỷ XIX. Trong các dự thảo Hiến pháp đầu tiên tại Nga có thể kể đến “Chương trình cải tổ nhà nước” của M.M. Speransky (năm 1809) và “Điều lệ Hiến pháp Đế chế Nga” của N.N. Novosiltsev (năm 1818). Speransky trong bản dự thảo của mình đề xuất ý tưởng chế độ quân chủ lập hiến, được giới hạn bởi nghị viện. Hiến pháp được ông hiểu là đạo luật quốc gia “quy định các quyền cơ bản và quan hệ của tất cả các giai cấp với nhau”.
Tuy nhiên các ý tưởng cải tổ hiến pháp tại Nga thời gian đó cuối cùng không thực hiện được vì không đủ các điều kiện cả về kinh tế-xã hội cũng như chính trị. Các đạo luật của Đế chế Nga thể hiện tinh thần quân chủ chuyên chế, còn Hiến pháp sẽ dẫn đến hạn chế quyền lực Sa hoàng. Hiến pháp mà Sa hoàng-nhà cải tổ Alexandr II (người đã xóa bỏ vào năm 1861 chế độ nông nô) soạn thảo cũng không được hoàn thiện do ông bị ám sát vào năm 1881.
Hiến pháp đầu tiên của Nga ra đời vào năm 1918, sự phát triển Hiến pháp tiếp theo mang đặc trưng thay đổi bộ máy Đế chế và hình thành các nền móng của chế độ mới. Trong toàn bộ thời kỳ Xô viết, Hiến pháp đã bốn lần thay đổi. Hiến pháp năm 1918 chỉ đem lại quyền chính trị và tự do cho người lao động; Hiến pháp năm 1924 hoàn toàn không đề cập đến quyền và nghĩa vụ công dân, điều mà sau này mới có trong Hiến pháp năm 1937 (như quyền được lao động); tại Hiến pháp năm 1977 nhân dân đã trở thành chủ thể nắm giữ toàn bộ quyền lực.
Hiến pháp năm 1993 được thông qua trong các điều kiện lịch sử khó khăn, trong bối cảnh xung đột chính trị vô cùng căng thẳng. Dự thảo Hiến pháp của Xô viết tối cao hạn chế quyền lực của Tổng thống B.N.Eltsin, còn các chức năng cơ bản điều hành nhà nước sẽ chuyển cho nghị viện. Trong khi đó Văn phòng Tổng thống đã chuẩn bị một dự thảo khác, tuy nhiên cả dự thảo này của đạo luật cơ bản đã không được thông qua.
Khủng hoảng gia tăng bắt buộc Tổng thống đi đến quyết định giải tán Đại hội đại biểu nhân dân và Xô viết Tối cao. Sau sự kiện tháng 10-1993, công việc hoàn thiện dự thảo Hiến pháp Liên bang Nga được tiến hành. Nhằm mục đích này, các hội nghị lập hiến Nhà nước cũng như xã hội đã được thành lập. Tại các kỳ họp của hội nghị các điều khoản của đạo luật cơ bản đã được soạn thảo và nhất trí. Hiến pháp mới được thông qua bằng hình thức biểu quyết toàn dân ngày 12-12-1993 và có hiệu lực từ ngày công bố - 25 tháng 12 cùng năm.
Hiến pháp năm 1993 củng cố sự bền vững của các cấu trúc nhà nước và đồng thời giữ được không gian cho sự tự do bên trong cấu trúc vững chắc ấy, điều mà các Hiến pháp trước chưa có. Trong văn bản mới đã được xây dựng cơ sở pháp lý, đảm bảo sự toàn vẹn chính trị, kinh tế, xã hội quốc gia. Hiến pháp đã trở thành sự thể hiện một cách hệ thống các giá trị luật cơ bản quyết định bộ mặt mới và kế thừa lịch sử của nước Nga. Đó là các quyền và tự do của con người; thượng tôn pháp luật, công bằng và bình đẳng; quốc gia dân chủ, liên bang, pháp trị và xã hội; phân chia quyền lực, có chế độ đại nghị; nền kinh tế pháp trị.
Trong các thực tiễn mới, nhiệm vụ đặt ra trước Liên bang Nga là xây dựng nền kinh tế thị trường, xã hội mở và dân chủ. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực của Nga vào tất cả các tiến trình của thế giới. Hiến pháp và sự phân giải chính xác, hiện đại và linh hoạt bao gồm cả bởi tòa án Hiến pháp được mong đợi sẽ bảo đảm cho sự hội nhập của Nga vào thế giới mở và đồng thời không cho phép làm suy yếu chủ quyền và các quyền lợi quốc gia Nga bởi các lợi ích bên ngoài và hỗn loạn trong luật pháp. Trong Hiến pháp đã trù liệu các khả năng pháp lý đầy đủ cho các trường hợp này.
Hiến pháp với nguyên tắc dân chủ cơ bản phân chia quyền lực xác định ba nhánh quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ chế kiểm soát và đối trọng trong Hiến pháp giúp cho quyền lực nhà nước không vượt ra ngoài khuôn khổ cho phép của Hiến pháp. Nhiệm vụ của Tổng thống, người đứng đầu quốc gia và bảo đảm thực thi Hiến pháp - bảo đảm việc phối hợp và thống nhất hoạt động của các cơ quan nhà nước; đồng thời các tòa án và các cơ quan lập pháp với thẩm quyền của mình cũng có các biện pháp để bảo đảm nhiệm vụ rất quan trọng này.
Từ lúc được thông qua Hiến pháp đã có một số sửa đổi. Năm 2008, Hiến pháp có sửa đổi lớn nhất cho đến nay là tăng nhiệm kỳ của Tổng thống từ 4 lên 6 năm, còn đại biểu Đuma quốc gia từ 4 lên 5 năm. Ngoài ra, Chính phủ Nga hằng năm bắt buộc phải báo cáo trước các đại biểu Đuma quốc gia về hoạt động của mình.
Cần nhấn mạnh rằng, trong những năm gần đây, nhiều chính trị gia và các chuyên gia đề xuất xem xét lại một loạt các nguyên tắc trong Hiến pháp. Tổng thống Nga V.V Putin về vấn đề này đã nhiều lần phát biểu rằng sẽ không để xảy ra việc thay đổi đạo luật cơ bản một cách vô căn cứ. Các mục đích đã tuyên bố, giá trị và cơ chế của Hiến pháp đã chứng minh sự xác đáng của mình, giúp cho xã hội Nga vượt qua các khó khăn và bước sang con đường phát triển bền vững.
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm.
"Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại."
Theo đó, tại Hiến pháp 2013, các quyền con người trở thành một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp. Các quyền con người được xác định cụ thể tại Chương II Hiến pháp 2013. Cụ thể:
1. Nhóm các quyền con người về dân sự, chính trị
- Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật;
- Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; (Điều 16)
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam;
- Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. (Điều 18);
- Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật (Điều 19);
- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Không ai bị bắt nếu không có quyết định của tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định;
- Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kì hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm (Điều 20);
- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật đảm bảo an toàn;
- Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (Điều 21);
- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý (Điều 22);
- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật (Điều 24);
- Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác (Điều 30);
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
- Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
- Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
- Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. (Điều 31)
2. Nhóm các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa
- Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
- Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ .
- Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (Điều 32).
- Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33).
- Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi (khoản 2 Điều 35).
- Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu (khoản 3 Điều 35);
- Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn: Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em (Điều 36);
- Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em;
- Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập và lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí lực, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc;
- Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 37);
- Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế (khoản 1 Điều 38);
- Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40);
- Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41);
- Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43)
- Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép cư trú. (Điều 49)